4. Hoạt động canh tân của Đức Phaolô VI. * Tình yêu nhân loại giới hạn một nhóm người.
- Tình yêu thần linh tiếp đón mọi người.
- Tình yêu nhân loại đáp trả sau,
- Tình yêu thần linh tình nguyện bước trước.
- Tình yêu nhân loại kéo riêng về mình,
- Tình yêu thần linh hợp nhất với kẻ khác.
- Tình yêu nhân loại chỉ động đến con người.
- Tình yêu thần linh biến đổi cả con người.
- Một khi con người được biến đổi, xã hội sẽ biến đổi, luật lệ sẽ biến đổi, liên lạc giữa người với người sẽ biến đổi: Canh tân toàn diện (ĐHV 638).
* Mỗi ngày báo chí chạy bằng hàng tít lớn những câu chuyện giật gân, những biến cố bùng nổ giữa loài người. Con phải hiện diện, phải hồi hộp thao thức với nhân loại. Những thời hiệu ấy thúc đẩy con xây dựng một xã hội mới mẻ mà báo chí không săn tin nổi: Xây dựng Nước Thiên Chúa, ngay từ trần gian với phương tiện có giữa trần gian (ĐHV 644).
* Canh tân đòi hỏi can đảm. Canh tân đòi hỏi quyết định: Trước bao nhiêu đau khổ, Trước tiếng gọi của Thiên Chúa, Con đừng hững hờ giả lờ, Hãy nên một tông đồ dấn thân cho công cuộc canh tân, dĩ nhiên với nhẫn nại hy sinh và chỉ vì mến yêu Hội Thánh (ĐHV 659).
Tiếp tục sự nghiệp của Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI đã trung kiên thi hành sứ mệnh thực hiện Công đồng Vatican II dù phải trải qua muôn nghìn gian truân, thử thách, khủng hoảng, ra đi trong cũng như ngoài Hội Thánh.
Chiếc mũ "Ba tầng" của giáo phận Milanô dâng cho ngài có nạm nhiều viên ngọc quý sáng ngời đã được ngài đem bán ngày 18.11.1964 để lấy tiền giúp kẻ nghèo và từ đây ngài chỉ đội mũ như các Giám mục.
Ngày 15.9.1970, ngài đã giải tán các đội lính hầu trong Vatican và chỉ để lại vệ binh Thụy Sĩ để gác cổng.
Nhưng ngoài những việc nói được là nhỏ nhất ấy, Hội Thánh và thế giới còn chứng kiến không biết bao nhiêu là công cuộc cải cách được thực hiện dưới triều đại của ngài, một triều đại kéo dài 15 năm giữa lòng một thế kỷ có nhiều thay đổi lớn lao kỳ diệu xen lẫn với những khó khăn, khủng hoảng thật trầm trọng.
Chẳng hạn ngài đã nâng tổng số Hồng Y Đoàn lên đến 120 vị và quyết định các vị Hồng Y từ 80 tuổi trở lên không được quyền ứng cử và bầu cử Tân Giáo hoàng nữa. Ngài đã quốc tế hoá giáo triều: trước đây, các Toà Bộ thường do những vị có quốc tịch Ý điều khiển, nay ngài quyết định chọn nhiều vị xuất sắc trong hàng giáo phẩm khắp nơi đưa về Roma phục vụ Toà Thánh phụ trách các Toà Bộ có tính cách then chốt ở Vatican, chẳng hạn:
* Đức Hồng Y Villot (Pháp): Quốc Vụ Khanh Toà Thánh.
* Đức Hồng Y Franje Seper (Nam Tư): Thánh Bộ Đức Tin.
* Đức Hồng Y Agnelo Rossi (Braxin): Thánh Bộ Phúc Âm hoá.
* Đức Hồng Y Bernadin Gantin (Dahomey): Ủy ban Tông toà Corunum và Công lý Hòa bình.
* Đức Hồng Y Jan Willebrands (Hoà Lan): Văn phòng Giáo hội Hiệp nhất.
* Đức Hồng Y Eduard Pironie (Achentina): Thánh Bộ Tu sĩ.
* Đức Hồng Y Gabriel Carrone (Pháp): Thánh Bộ Chủng viện và Đại học.
* Đức Hồng Y R. Knox (Úc đại Lợi): Thánh Bộ Bí tích.
* Đức Hồng Y Maurice Roy (Canada): Hội đồng Giáo dân.
* Đức Hồng Y J. Lourdasamy (Ấn Độ): Tổng thơ ký Thánh bộ Phúc Âm hoá.
* Đức Hồng Y L. Rubin (Ba Lan): Tổng thơ ký Thượng Hội đồng Giám mục.
Để hỏi ý kiến dân Chúa, ngài đã thiết lập Thượng hội đồng Giám mục gồm các thành viên do Hội đồng Giám mục mỗi nước đề cử và một số do chính Đức Giáo Hoàng chỉ định; Hội đồng này ba năm họp một lần để góp ý kiến cho Đức Giáo Hoàng về các vấn đề đang sôi bỏng trên thế giới hoặc quan trọng trong Hội Thánh.
Và chắc không ai quên được những chuyến công du trong đời ngài:
Sau sáu tháng khi nhậm chức, ngày 4.1.1964, ngài đã đi hành hương Thánh địa kính viếng nơi Chúa Giêsu Thầy Chí Thánh đã sống, đã hy sinh để thành lập Hội Thánh, và cũng là nơi sôi bỏng nhất ở Trung Đông. Đây là lần đầu tiên hàng rào thù địch giữa Jordanie và Israel đã mở cho một vị Quốc khách đi bên này sang bên kia. Cũng năm ấy ngài sang Bombay (Ấn Độ) dự Hội nghị Thánh Thể quốc tế lần thứ 38. Ngày 4.10. năm sau, ngài qua Liên Hiệp Quốc đọc diễn văn kêu gọi hoà bình trước 117 phái đoàn đại diện cho 117 quốc gia hội viên. Năm 1967, ngài sang Fatima dịp kỷ niệm 50 năm Đức Mẹ hiện ra. Năm 1968, ngài lại đến Bogota (Colombia) tham dự Đại Hội các Giám mục Châu Mỹ Latinh tổ chức tại Medelli. Sang năm 1969, ngài đã liên tiếp thực hiện hai chuyến công du viếng thăm Genève (Thụy sĩ) và Ouganda (Châu Phi). Trong cuộc viếng thăm Genève ngày 10.6, ngài đọc diễn văn tại hội nghị thứ 50 của Tổ chức Lao động Quốc tế thuộc Liên Hiệp Quốc. Rồi từ ngày 31.7 đến 2.8, giữa lúc biến cuộc tang thương Biafra đang tiếp diễn, ngài đã đến Kampala, thủ đô Ouganda, tham dự Đại Hội đồng Giám mục Phi Châu. Đến đâu ngài cũng thực hiện sứ mệnh của một vị tông đồ đi rao giảng Tin Mừng theo như lời ngài đã tâm sự: "Tôi muốn thấy tận mắt, sờ tận tay những đau khổ của con người". Nổi bật nhất là chuyến công du dài 46.400 khi sang Á châu và Đại Dương Châu vào năm 1970. Cuộc du hành này bắt đầu từ sáng sớm ngày 26.11 tại Ý. Ngài đã ghé thăm Téhéran (Ba Tư), Dacca (Pakistan), bay qua vòm trời Việt Nam, đến Manila (Phi luật Tân), tham dự Đại Hội các Giám mục Á châu. Sau đó ngài đi thăm Samca, ghé thăm Sydney (Úc) và chủ toạ phiên họp Hội đồng Giám mục Châu Đại Dương được tổ chức tại đây. Ngài cũng đi viếng thăm Djakarta (Nam Dương), Hồng Kông và Colombô. Ngày 5.12 ngài trở về Roma. Trên suốt quãng đường hành trình ngài đã tiếp xúc với dân chúng, chia sẻ những đau khổ và hy vọng của họ; ngài đã nói lên tiếng nói của bác ái và công bình và kêu gọi sự tương trợ quốc tế.
Chính ngài đã lập nên quỹ Phát triển quốc tế và bán các dinh thự của Toà Thánh để bỏ vào đó hầu giúp những người nghèo khổ trong thế giới thứ ba được phát triển toàn diện. Tất cả những đường hướng ấy đã được ngài đúc kết trong thông điệp: "Phát triển các dân tộc" công bố vào ngày lễ Chúa Phục Sinh 26.3.1967.
Là một Giáo Hoàng của hòa bình, ngài đã biến ngày 1.1 dương lịch hằng năm thành ngày Quốc tế Hoà bình, có mục đích giáo dục, học tập, cầu nguyện và hành động cho hoà bình (kể từ năm 1968); sáng kiến này đã được tổ chức Liên Hiệp quốc tán đồng và trên 50 quốc gia tích cực hưởng ứng. Rồi suốt cuộc đời, ngài đã tích cực nỗ lực vận động hòa bình cho nhiều quốc gia trên thế giới, trong số đó có dân tộc Việt Nam chúng ta.
Là một Giáo Hoàng của sự hiệp nhất, ngài đã thành lập văn phòng liên lạc với các Kitô hữu ngoài Công giáo. Ai có thể tưởng tượng được những nghi thức long trọng và cảm động tại Vương Cung Thánh đường Thánh Phaolô ngoại thành lúc Đức Phaolô VI ôm hôn Thượng phụ Giáo chủ Athénagoras. Tưởng cũng nên biết rằng trước đó vào ngày 7.12.1965, Đức Phaolô VI ở Roma và Đức Athénagoras I ở Istabum cùng một lúc đã tuyên bố xóa bỏ án "vạ tuyệt thông" lẫn nhau, một nguyên do phát sinh sự ly khai năm 1054, khiến cho hơn 900 năm chia rẽ oán hận nhau được xóa nhoà. Năm 1973, khi Đức Thượng phụ Shenouda của Hội Thánh Marcô, Ai Cập đến thăm Toà Thánh thì điều đó có nghĩa 1500 năm cách trở đã được vượt qua. Mới đây vào năm 1976, Đức Phaolô VI đã gây chấn động khắp nơi bằng cử chỉ qùy xuống hôn chân vị Đại diện Giáo hội Chính thống trong lễ kỷ niệm 10 năm hủy bỏ sắc lệnh tuyệt thông.
Đối với các Giáo hội Kitô khác, ngài đã bước được những bước rất tốt đẹp, Ngày 23.3.1966 tiến sĩ Ramsey, Tổng giám mục Canterbury, Giáo chủ Anh giáo đã đến thăm Toà Thánh. Và năm 1969, Đức Phaolô VI đã đến Genève (Thụy sĩ) thăm trung tâm Đại kết các Tôn giáo, nơi quy tụ 234 Giáo hội Tin lành, Anh giáo, Chính thống giáo. Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên đến thăm Genève từ khi nơi này trở thành Trung tâm Giáo hội Tin lành (thế kỷ XVI). Ngày 2.10.1970, chính ngài đã chủ tọa lễ cầu nguyện khai mạc Hội nghị Đại hội Tôn giáo gồm: Anh giáo, Presbyterian, Methodist, Chính thống.
Là một vị Giáo Hoàng của đối thoại, Đức Phao lô VI đã thành lập văn phòng liên lạc với những người vô thần. Ngài đã tiếp đón nhiều chính khách cao cấp của các nước Chủ nghĩa xã hội như Chủ tịch Nikolai Podgorny của Liên Sô (1967). Chủ tịch của Roumanie (1974), ông Janos Kadar, Bí thư thứ nhất của ban chấp hành Trung ương đảng Công nhân Xã hội Chủ nghĩa Hungari, và ông E. Giesek, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan (1977).
Riêng đối với Việt Nam, Đức Phao lô VI đã gọi là một "ngày đáng ghi nhớ" lúc ông Xuân Thủy, đại diện Chính phủ đầu tiên của Việt Nam đến Vatican ngày 14.2.1973. Ba tháng sau, Đức Phaolô VI tiếp kiến ông Nguyễn văn Hiếu, trưởng phái đoàn của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Chủ nghĩa Xã hội Việt Nam ở Hội nghị La Celle-Saint-Cloud. Trước đó vào tháng 2.1971, Vatican đã tiếp bà Nguyễn thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng Lâm thời và là trưởng phái đoàn của Chính phủ này tại Hội nghị Paris. Đức Phaolô VI chỉ nói cách khiêm tốn về "một cuộc dấn thân theo sức chúng ta" để vãn hồi hoà bình chính đáng và lâu dài, bảo đảm cho con người được sống trong tự do hạnh phúc xứng với mọi dân tộc.
Ngài đã gởi một phái bộ do Đức Tổng Giám mục Sergiô Pignedoli dẫn đầu sang Ba Lan và Liên Sô năm 1970. Tháng 2 năm sau, đặc phái viên của ngài là Đức Tổng Giám mục Agostinô Casaroli được gởi sang Matcova, khởi đầu cuộc Hội đàm với nhà cầm quyền Liên Sô. Cuộc bang giao giữa Toà Thánh với Cộng Hoà Nam Tư cũng đã được tái lập trên cấp bậc Sứ thần và Đại sứ từ 15.8.1970. Mối quan hệ với các nước Chủ nghĩa Xã hội ở Đông Âu và sinh hoạt của Hội Thánh tại các nước ấy cũng được bình thường hoá...
Khuôn khổ chật hẹp ở đây không cho phép nói lên tất cả những hoạt động canh tân của Đức Phaolô VI, nhưng lịch sử rồi đây sẽ ghi chép lại tất cả mọi nỗ lực, nhẫn nại, can đảm và thành tín của ngài trong sứ mệnh thực hiện Công đồng Vatican II.
5. Tại sao người Công giáo chưa canh tân được Hội Thánh và thế giới. * Canh tân là trở về nguồn. Công thức canh tân: Làm cho người công giáo trở lại đạo công giáo. Làm cho người Kitô hữu trở lại với Chúa Kitô. Mới nghe, con ngạc nhiên, nhưng ngẫm nghĩ lại, con sẽ thấy đúng như vậy. Một câu nói của thánh Gandhi nhiều lần khiến ta suy nghĩ: "Tôi mến Chúa Kitô, nhưng tôi không yêu người Kitô hữu, vì họ không giống Chúa Kitô." (ĐHV 634).
* Mỗi ngày "Phúc Âm hóa" lại trí óc và quả tim con, bằng cách đọc, suy ngắm, say sưa uống lấy lời hằng sống, để từ từ Phúc Âm thấm nhuần sâu xa vào mỗi tế bào, mỗi thớ thịt của con, đó là canh tân, cách mạng chắc chắn nhất (ĐHV 646).
* Kể từ hôm nay, từ nét mặt con, từ cử chỉ con, từ sự thinh lặng, từ quả tim con, từ tâm hồn con, từ mọi hành động, từ cách sống, từ cách chết của con, phải tỏa ra một ánh sáng của Chúa hiện diện trong con, qua những nơi con đi, vào những người con gặp (ĐHV 649).
* Nếu con chỉ "giữ đạo", con chưa canh tân. Ma quỉ muốn đuổi Chúa ra khỏi thế gian và lôi thế giới ra khỏi Chúa. Con phải đem Chúa đến cho thế giới và đưa thế giới về với Chúa (ĐHV 650).
* Hàng rào kiên cố nhất, không phải là chiến lũy, không phải hàng rào điện tử, đó là "hàng rào hờ hững" của con: "Ai chết mặc ai! Ai đói khổ mặc ai" Sụp đổ, thoái hóa cũng mặc! Như thế được rồi:" làm sao vượt nổi! (ĐHV 652).
* Canh tân xã hội bằng con người đã canh tân trung thực theo Phúc Âm. Đức tin sẽ đem lại một giá trị mới cho công việc bổn phận của họ. Người ta không biết họ đâu? Không nghe họ nói, nhưng người ta công nhận có sự gì đổi mới, tự nhiên thấy nếp sống đẹp hơn, bầu không khí phảng phất hương vị mới lạ (ĐHV 653).
* Không phải bước nhanh, bước gấp, nhưng bước vững, bước đúng con sẽ tiến xa. Không phải hô hào thúc đẩy cho thế giới tiến, nhưng chính con phải khởi sự tiến lên (ĐHV 654).
Chúng ta nên suy nghĩ những lời sau đây của một cán bộ Cộng sản viết trong báo "Tự Do" xuất bản tại Fribourg, Thụy sĩ:
"Phúc Âm là một lợi khí mạnh mẽ để canh tân xã hội hơn những nguyên tắc Mác-xít của chúng tôi; nhưng dù vậy, sau cùng chúng tôi sẽ là người chiến thắng.
"Vì tuy chúng tôi chỉ là một nhóm nhỏ trong khi các anh, những người Công giáo các anh có cả mấy triệu người. Nhưng các anh chỉ sống theo danh từ, còn chúng tôi những người cộng sản, chúng tôi thực tế hết sức. Chúng tôi quyết đinh phải đạt tới mục đích nên chúng tôi biết tìm những phương thế để đạt tới mục đích đó.
"Những quyền lợi và đồng lương, chúng tôi chỉ giữ một phần cần thiết, và chúng tôi hy sinh phần còn lại để bỏ vào việc truyền bá chủ nghĩa.
"Chúng tôi cũng để tất cả thời giờ nhàn rỗi và một phần những ngày nghỉ việc dành cho công cuộc truyền bá ấy.
"Nhưng các anh, trái lại, chỉ để một thời giờ hẹp hòi và một chút ít tiền của trong việc phổ biến Phúc Âm của các anh.
"Ai sẽ đi vào những giá trị cao siêu của Phúc Âm nếu chính mình các anh không sống theo đó, không tuyên truyền nó, nếu các anh quá hẹp hòi trong việc xử dụng thời giờ và tiền bạc?
"Các anh hãy tin đi, chúng tôi sẽ thắng, bởi vì chúng tôi rất tin tưởng vào Chủ nghĩa Cộng sản của chúng tôi, và chúng tôi đang sẵn sàng hy sinh tất cả, ngay cả tính mạng của chúng tôi để cho công bằng xã hội được thiết lập.
"Còn các anh, các anh sợ phải bẩn tay".
Chúng ta nên tự vấn: những lời này đáng được nói với chính bản thân tôi. Thử hỏi tôi đã đọc, đã học tập Công đồng Vatican II lần nào chưa? Được nhiều hay ít? và cố gắng thực hiện được mấy phần?
Fx. Nguyễn Văn Thuận, HY
(Hết)